Nguyên tắc Độn giáp

Độn Giáp là môn dự đoán, phát sinh từ Dịch học, ứng dụng dịch lý. Độn Giáp là hệ thức thời gian theo Can Chi tương ứng với các thuộc tính của Tiết khí, theo một chu kỳ tính theo năm (tháng) hoặc Nguyên, Hội, Vận v.v... mà mỗi vị trí thời gian Can Chi phản ánh một quá trình phát sinh, phát triển và kết quả của sự vật, hiện tượng, con người. Nói đến Độn Giáp là nói đến Tiết khí được lượng hoá qua độ mạnh yếu của khí Âm Dương bằng hằng số của Dịch học gọi là Cục.

Trong mười Thiên can thì ba nhóm Thiên can Ất, Bính, Đinh được gọi là Tam Kỳ, sáu nhóm Thiên can Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý được gọi là Lục Nghi. Can giáp được ẩn đi nên gọi là Độn Giáp. Tam kỳ tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và tinh tú. (tam kỳ: Nhật kỳ, nguyệt kỳ, tinh kỳ; Lục nghi: là 6 nghi, mỗi nghi 05 ngày, Lục nghi có nghĩa là 30 ngày) Nhật kỳ: là ngày, là mặt trời sáng sủa - Ất kỳ; Nguyệt kỳ: là tháng, là mặt trăng đỏ sáng - Bính kỳ; Tinh kỳ: là giờ, là sao, là vi cấp của 60 giờ trong một nghi 5 ngày (5 x 12 giờ), chi phối bởi 28 vì sao, gọi là Nhị Thập Bát tú, còn gọi là Đinh kỳ; Mỗi Tiết trời có 03 nghi = 15 ngày.

Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Tám cửa gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Đồ. Tên các cửa trong Bát Trận Đồ là Thiên Môn, Địa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Điểu Môn và Xà Môn. Bát Trận Đồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Đất đối với con người ta.

Kỳ Môn Độn Giáp: có nghĩa là Giáp trốn ở Mậu, bởi lẽ hai địa chi Hợi và Tí của can Giáp ở Tiết Lập Đông Tiểu Tuyết, Đại Tuyết, Đông chí. Khởi tính năm Giáp Tí ở Thiên can Mậu, nó độn trốn ở can Mậu; Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên; Thượng nguyên (ngươn): 1864-1923; Trung nguyên: 1924-1983; Hạ nguyên: 1984-2043 và 2044 trở lại Thượng nguyên.

Độn giáp được hình thành trên cơ sở bài toán Tổ Hợp Tuyến tính của 10 Can 12 Chi của: (Năm, Tháng, Tiết, Lục nghi, Tam kỳ của Tiên thiên bát quái, Hậu thiên bát quái, cửu cung (Hư, Sinh, Thương, Đổ, Cảnh Tử, Kinh, Khai, Trung ngũ cung); 28 sao (Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ, Đẫu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tuy, Sâm, Tỉnh, Quỹ, Liểu, Tinh, Trương, Diệc, Chẩn): Tính bằng giờ theo gọi theo can chi, và sao (y như tính thời gian bằng giờ, phút, giây)...

Muốn hiểu và hành được môn này, bạn phải thuộc bài thơ theo đây: Hưu Môn hung bạo hà phương Lợi; Sinh giả An Hòa, vạn sự thanh; Thương môn đại bại sự nan hành; Đổ thị tiêu diêu, chí khả thành; Cảnh môn hỹ lạc, tâm trung hảo; Tử giả khôn vong, phá tán tranh; Kinh môn tiền hung giai hậu kiết; Khai thời vạn sự cộng ngươn hanh. Bấm độn theo 8 cửa, còn phải thông thạo ngày giờ mình bấm độn, để tính làm một việc ở một thời gian thích hợp, tốt lành nào đó; Cần phải biết từ tháng Giêng đến tháng 12, phối hợp theo can và chi, phối hợp theo Tiết khí, xem rõ trong lục nghi, và tam kỳ, có can chi gì khắc hoặc thuận để phối hợp ra thời điểm, và các phương án dự phòng.

Bát Môn Đại Độn, cũng như Lục Nhâm Đại Độn (6 cách tính độn số), bạn có thể ứng dụng vào phong thủy, đất đai, nhà cửa, tuổi tác ứng nghiệm để sử dụng được. Rất chi tiết, đòi hỏi người muốn học và hành môn này, tâm phải thật thanh tịnh, vô nguyện, các số liệu vi cấp của đại độn cho phép thấy (Tuệ giác) nhiều điều khó nói hết được.

Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa Đại lục và Đài Loan. Phổ biến nhất là thời gia kỳ môn học, sau đó là niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học...